Nhiễm đôc thai nghén, bệnh lý nguy hiểm
26/11/2012 (444 lượt xem)
Nhiễm độc thai nghén là tình trạng bệnh lý phát sinh ở người phụ nữ khi mang thai. Biểu hiện của nhiễm độc thai nghén là phù, tăng huyết áp, trong nước tiểu có albumin... Bệnh hay gặp ở những người có thai lần đầu tiên, đa thai, đa ối, có tiền sử mắc bệnh tim mạch, tăng huyết áp, viêm cầu thận, người béo, bệnh tiểu đường... và thường xảy ra vào tuần thứ 24 của thai kỳ.
Nguyên nhân dẫn đến nhiễm độc thai nghén
+ Chửa con so, chửa sinh đôi, những trường hợp đa ối
+ Thần kinh, tâm lý: sợ thai nghén hoặc mong muốn có con.
+ Mẹ có bệnh nội khoa mãn tính: loét dạ dày, viêm thận mãn tính.
+ Thường gặp khi thời tiết lạnh (chuyển mùa)
Triệu chứng nhiễm độc thai nghén
- Phù: Phù 2 chi dưới, thường xuất hiện nhất là 3 tháng cuối của thai nghén. Phát hiện bằng cách ấn ngón tay vào mắt cá chân có dấu hiệu lõm của ngón tay, phù nặng thì có thể phù ở cả mặt và hai tay.
Những thai phụ bị phù do thai nghén chèn ép thì chỉ cần nằm nghỉ ngơi, gác cao chân sẽ hết phù.
Còn ở nhiễm độc thai nghén thì phù ở chân không giảm sau nghỉ ngơi. Cân nặng tăng nhanh tới 500g mỗi tuần là do hiện tượng giữ nước trong cơ thể.
Xét nghiệm protein niệu nếu lớn hơn 0,3g/l là không bình thường, cần theo dõi nhiễm độc thai nghén.
- Tăng huyết áp: Thai phụ có nhiễm độc thai nghén, ở thời kỳ cuối của thai nghén huyết áp tối đa tăng lên khoảng 30mmHg và huyết áp tối thiểu tăng khoảng 15mmHg so với trước khi có thai, hoặc có huyết áp trên 140/90mmHg thì cần theo dõi và điều trị nhiễm độc thai nghén.
Biến chứng của nhiễm độc thai nghén
Nhiễm độc thai nghén nếu không được điều trị tốt sẽ dẫn đến tiền sản giật và sản giật.
Tiền sản giật: Biểu hiện sản phụ choáng váng, có hiện tượng mắt mờ, có khi buồn nôn, nước tiểu có protein tăng đến 0,5g/l, phù không giảm mà nặng hơn và nước tiểu ít hơn nhưng chưa có cơn giật.
Nếu huyết áp trên 160/100mmHg mà điều trị không giảm phải lấy thai ra ngay nếu không có thể dẫn đến cơn sản giật.
Sản giật: Thường xảy ra ở thời kỳ cuối của thai nghén, trong khi chuyển dạ và sau đẻ.
Sản phụ lên cơn giật và hôn mê, có kèm theo phù, tăng huyết áp, protein niệu. Thường xảy ra ở thai phụ mang thai con so nhiều hơn con rạ, và thường xảy ra từ tuần thứ 30 trở đi.
Biểu hiện của sản giật: Co giật mạnh, mắt đảo rồi giật toàn cơ thể co cứng, đầu ưỡn ra sau, mắt đảo lên trên, rồi ngừng thở và chuyển rất nhanh sang giật run, co giật ở mặt, giật mạnh ở tay chân. Có thể cắn phải lưỡi và sùi bọt mép, mặt xanh tái rồi chuyển thành xám xịt, sau đó co giật giảm dần, sản phụ bị hôn mê rồi thở rống lên.
Mạch nhanh, cơn co tăng lên khi giật. Hiện tượng này nếu không được xử trí thì dẫn đến suy tim, phù phổi, chảy máu não thậm chí tử vong.
Đối với sản giật trước đẻ: Những cơn giật có thể dẫn đến đẻ non, thai nhi thường chết. Nếu được điều trị tốt sản phụ có thể chuyển dạ đẻ thường và thai nhi sống.
Đối với sản giật trong khi chuyển dạ: Cơn giật làm cơn co tử cung mạnh, vì vậy đối với sản phụ có cổ tử cung mở chậm phải xử trí mổ lấy thai ngay.
Sản giật sau đẻ: Thường nhẹ hơn, cơn giật thường xảy ra vài giờ sau đẻ.
Vì vậy đối với sản phụ sinh tại trạm y tế có cơn giật cần phải theo dõi từng cơn giật, đo huyết áp và thử nước tiểu thường xuyên và cần phải cấp cứu nhanh chóng, đồng thời chuyển ngay bệnh nhân đến bệnh viện có chuyên khoa sản để điều trị
Cách phòng tránh:
Phụ nữ mang thai phải thường xuyên khám thai tại cơ sở y tế (ít nhất 3 lần trong suốt quá trình mang thai, nếu có thể một tháng khám một lần). Ngoài ra, nếu thấy dấu hiệu bất thường như đã nói ở trên cần khám ngay dù chưa đến hẹn.
Trong thời gian mang thai cần nghỉ ngơi hợp lý, không lao động quá mệt nhọc. Chú ý bổ sung chất dinh dưỡng nhất là chất đạm và vitamin, ăn giảm lượng muối. Phải đến khám và xét nghiệm nước tiểu ngay khi thấy có biểu hiện phù hoặc thấy các dấu hiệu đau đầu, mờ mắt...
Khi đã chẩn đoán bị nhiễm độc thai nghén cần nằm viện để điều trị, nếu nhẹ có thể điều trị tại nhà theo đơn thuốc của bác sĩ.